Anh/chị nào đã gặp trường hợp như bên em không ạ
Năm 2012 cty em có ký hợp đồng với khách hàng A 300 triệu đồng. Nhưng khi xuất hóa đơn bên A yêu cầu bên em xuất công ty A 150tr, công ty B 150tr.
Vì kế toán mới ra trường ko chưa có kinh nghiệm đã xuất như yêu cầu của khách hàng. Vấn đề lại rắc rối hơn là khách hàng A lại chuyển khoản thanh toán hết 300 tr của 2 hóa đơn (của cty A và B).
Không có kế toán bên nào phát hiện ra hết , jo bên em mới phát hiện.
Vì tên cty A và B hơi giống nhau nên kế toán cũ không để ý lúc chuyển tiền nên trong sổ kế toán công nợ thì hết nợ rùi .
Cả nhà giúp em cách nào giải quyết tốt nhất.
Hiện tại bên kh A và B cũng chưa phát hiện ra ( 2 cty cùng 1 chủ)
[ad_2]
Lót dép chờ giải đáp:)). Chắc Chuẩn bị nộp phẠt đậm à
Mà ko hiểu sao kt báo thuế ko phát hiện mới hay.
Xem lại điều khoản hợp đồng ở mục thanh toán xem có thể để bên A thanh toán hộ cho bên B không.
Bạn xem lại hợp đồng.nếu k có điều khoản thanh toán hộ thì có thể làm lại và đưa bên B và C xác nhận.chủ yếu là người ta có chịu xác nhận hay k
Còn trương hợp như bạn nói,nếu cty bạn xuất hđ cho B và C nhưng A thanh toán thì B và C sẽ k đc khấu trừ thuế,cái này k có lợi cho cty họ,dại gì họ làm.bạn thử xem lại điều khoản Tt trên hợp đồng đó
Coi tren hd co dk thanh toan thay ko. Ko co thi phai lam lai hd moi dc
Ko có điều khoản thanh toán hộ ji hết mọi người ah
Mình cũng thắc mắc ko biết sao kt bên cty họ lại ko thấy nói ji hết trơn.
bi phat chac rui
Bạn làm phục lục HĐ cty A chỉ định giao hàng cho Cty B và xuất hóa đơn cho cty B (150tr) hình thức TT bên A trả tiền ( còn giữa A và B tự xử )
Vấn đề là theo điễm C) phải được quy định cụ thể trong hợp đồng dưới hình thức văn bản , có nghĩa là khi có thay đổi sau khi kí kết HĐ phải có văn bản theo HĐ đó . Không biết đúng không các bạn cho ý kiến , vì khi 2 bên ký kết chưa PS ông B nhưng vì lý do nào đó ông A đề nghị xuất cho ông B và ông A cam kết thanh toán thì làm văn bản theo hợp đồng đó , làm sao ki lại hđ được và không được làm phục lục thì điễm C cần gì thêm từ ( dưới hình thức văn bản )
phu luc la sai ma fai quy dinh cu the trong hop dong duoi dang van ban nghia la HD da co nhac toi, u cu lam theo y u di neu thue dung toi roi se biet dung hay sai, o day di tap huan thue va doi thoai voi thue co noi nhieu roi. nta cung bat buoc la fai quy dinh trong hdong, neu hd noi uy quyen cho ai thanh toan theo fu luc cu the thi moi duoc
Phụ lục hđ nó được xem 1 phần không thể tách rời trong HĐKT được sự thỏa thuận đồng ý của các bên và nó là điều khoản bổ sung cho HĐKT
sao mà nặng lời vậy bạn . Tôi với bạn cũng là đồng loại dưới đáy giếng thôi
Ếch dưới đáy giếng xin trích dẩn :BỘ TÀI CHÍNH
TỔNG CỤC THUẾ
——- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
—————
Số: 3949/TCT-CS
V/v: thuế GTGT. Hà Nội, ngày 11 tháng 09 năm 2014
Kính gửi: – Cục Thuế thành phố Hồ Chí Minh
– Công ty cổ phần đầu tư địa ốc No Va
(Đ/c: 315 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường 7, quận 3, TP. HCM)
Tổng cục Thuế nhận được công văn số 136/2014-CV-NVL ngày 23/6/2014 của Công ty cổ phần đầu tư địa ốc No Va đề nghị hướng dẫn vướng mắc về việc thanh toán trực tiếp cho bên thứ ba và cấn trừ công nợ. Về vấn đề này, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
Tại Khoản 2.d Điều 15 Thông tư số 06/2012/TT-BTC ngày 11/01/2012 của Bộ Tài Chính hướng dẫn các trường hợp được coi là thanh toán qua ngân hàng để khấu trừ thuế GTGT đầu vào gồm:
“d.1) Trường hợp hàng hóa, dịch vụ mua vào theo phương thức thanh toán bù trừ giữa giá trị hàng hóa, dịch vụ mua vào với giá trị hàng hóa, dịch vụ bán ra, vay mượn hàng mà phương thức thanh toán này được quy định cụ thể trong hợp đồng thì phải có biên bản đối chiếu số liệu và xác nhận giữa hai bên về việc thanh toán bù trừ giữa hàng hóa, dịch vụ mua vào với hàng hóa, dịch vụ bán ra, vay mượn hàng. Trường hợp bù trừ công nợ qua bên thứ ba phải có biên bản bù trừ công nợ của ba (3) bên làm căn cứ khấu trừ thuế.
…
d.3) Trường hợp hàng hóa, dịch vụ mua vào được thanh toán ủy quyền qua bên thứ ba thanh toán qua ngân hàng (bao gồm cả trường hợp bên bán yêu cầu bên mua thanh toán tiền qua ngân hàng cho bên thứ ba do bên bán chỉ định) thì việc thanh toán theo ủy quyền hoặc thanh toán cho bên thứ ba theo chỉ định của bên bán phải được quy định cụ thể trong hợp đồng dưới hình thức văn bản và bên thứ ba là một pháp nhân hoặc thể nhân đang hoạt động theo quy định của pháp luật”.
Trường hợp sau khi thực hiện các hình thức thanh toán nêu trên mà phần giá trị còn lại được thanh toán bằng tiền có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên thì chỉ được khấu trừ thuế đối với trường hợp có chứng từ thanh toán qua ngân hàng. Khi kê khai hóa đơn thuế giá trị gia tăng đầu vào, cơ sở kinh doanh ghi rõ phương thức thanh toán được quy định cụ thể trong hợp đồng vào phần ghi chú trên bảng kê hóa đơn, chứng từ hàng hóa, dịch vụ mua vào”.
Căn cứ hướng dẫn tại Điều 15 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2014 của Bộ Tài chính.
Căn cứ hướng dẫn trên và theo trình bày tại công văn số 136/2014-CV-NVL ngày 23/6/2014 của Công ty cổ phần đầu tư địa ốc No Va, trường hợp năm 2009, Công ty cổ phần đầu tư địa ốc No Va là chủ đầu tư dự án khu căn hộ A ký hợp đồng tổng thầu với Công ty Kumho Industria Lo., Ltd (Nhà thầu chính) thi công xây dựng dự án khu căn hộ A, tại thời điểm ký hợp đồng các bên chưa lựa chọn được nhà thầu phụ nên không quy định trong hợp đồng. Sau đó, đến năm 2010 Nhà thầu chính ký hợp đồng với Nhà thầu phụ là Công ty thiết bị PCCC Thăng Long thiết kế, cung cấp, lắp đặt hệ thống báo cháy và Công ty TNHH SX TM XD Ngũ Thường cung cấp, thi công xây tô, sơn mặt ngoài, chống thấm cho dự án khu căn hộ A trên. Các bên Chủ đầu tư, Nhà thầu chính và Nhà thầu phụ ký thỏa thuận bằng văn bản giữa 3 bên (được lập vào ngày 27/6/2011) đồng ý để Chủ đầu tư thanh toán trực tiếp cho Nhà thầu phụ qua ngân hàng. Bên cạnh đó, ngày 26/12/2011 các bên Chủ đầu tư, Nhà thầu chính và Nhà thầu phụ ký hợp đồng nguyên tắc với điều khoản Chủ đầu tư bán 02 căn hộ cho nhà thầu phụ (Công ty thiết bị PCCC Thăng Long), phương thức thanh toán là hình thức cấn trừ công nợ, theo đó khi Chủ đầu tư thanh toán cho Nhà thầu chính thì Chủ đầu tư sẽ cấn trừ vào khoản tiền mà Nhà thầu phụ phải thanh toán do mua căn hộ.
Như vậy thỏa thuận giữa 3 bên ký ngày 27/6/2011 và hợp đồng nguyên tắc ngày 26/12/2011 là một phần không tách rời của hợp đồng giữa chủ đầu tư và nhà thầu chính; hợp đồng mua bán căn hộ giữa chủ đầu tư và nhà thầu phụ được quy định tại Điều 6 – thời hạn và hiệu lực của Hợp đồng nguyên tắc, do đó việc thanh toán trực tiếp giữa chủ đầu tư và nhà thầu phụ và việc cấn trừ công nợ giữa nhà thầu chính và chủ đầu tư, giữa nhà thầu chính và nhà thầu phụ theo thỏa thuận ngày 27/6/2011 đáp ứng được điều kiện thanh toán theo hướng dẫn tại Khoản 2.d Điều 15 Thông tư số 06/2012/TT-BTC ngày 11/01/2012 của Bộ Tài chính. Các bên Chủ đầu tư, Nhà thầu chính và Nhà thầu phụ phải có đủ các thủ tục như biên bản đối chiếu, bù trừ công nợ giữa các bên, hóa đơn GTGT để làm căn cứ kê khai, khấu trừ thuế đầu vào theo quy định.
Tổng cục Thuế trả lời để Cục Thuế thành phố Hồ Chí Minh và Công ty cổ phần đầu tư địa ốc No Va được biết./.
Nơi nhận:
– Như trên;
– Vụ PC – BTC;
– Vụ PC, KK – TCT;
– Lưu: VT, CS (2b). KT. TỔNG CỤC TRƯỞNG
PHÓ TỔNG CỤC TRƯỞNG
Cao Anh Tuấn